Bài giảng Ngữ Văn Lớp 7 Sách Chân trời sáng tạo - Tiết 53 - Đọc mở rộng theo thể loại: Mùa phơi sân trước - Nguyễn Thị Thắm

pptx 26 trang Tố Thương 21/07/2023 5260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ Văn Lớp 7 Sách Chân trời sáng tạo - Tiết 53 - Đọc mở rộng theo thể loại: Mùa phơi sân trước - Nguyễn Thị Thắm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pptxbai_giang_ngu_van_lop_7_sach_chan_troi_sang_tao_tiet_53_doc.pptx

Nội dung text: Bài giảng Ngữ Văn Lớp 7 Sách Chân trời sáng tạo - Tiết 53 - Đọc mở rộng theo thể loại: Mùa phơi sân trước - Nguyễn Thị Thắm

  1. CHÀO MỪNG CÁC EM ĐẾN VỚI TIẾT HỌC NGỮ VĂN 7 (Tiết 53) GIÁO VIÊN: NGUYỄN THỊ THẮM TRƯỜNG THCS XÃ LÂM HẢI
  2. Đọc mở rộng theo thể loại: MÙA PHƠI SÂN TRƯỚC (Nguyễn Ngọc Tư) Giáo viên: Nguyễn Thị Thắm Trường: THCS xã Lâm Hải
  3. I. TRẢI NGHIỆM CÙNG VĂN BẢN
  4. MÙA PHƠI SÂN TRƯỚC -Nguyễn Ngọc Tư- I. TRẢI NGHIỆM CÙNG VĂN BẢN 1. Tác giả - Tên: Nguyễn Ngọc Tư; - Năm sinh: sinh năm 1976; - Quê quán: xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, trong một gia đình nông dân; - Nguyễn Ngọc Tư chuyên viết truyện Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ngắn, tiểu thuyết, viết tùy bút và làm thơ.
  5. 2. Tác phẩm a. Xuất xứ: Văn bản nằm ở phần 6 trong truyện ngắn “Bánh trái mùa xưa”, NXB Văn học, Hà Nội, 2015
  6. Vài nét về tác phẩm Bánh trái mùa xưa: Nguyễn Ngọc Tư trải lòng trong cái góc nhỏ miền Tây đã nuôi dưỡng tâm hồn chị. Góc nhỏ ấy có tấm lưng ông ngoại, có căn nhà chất đầy những món đồ hoài cổ, có mái hiên của bà cụ hiền như bà nội, có những chiếc bánh thảo thơm đồng bãi, Cứ thế miền Tây hiện ra gần gũi tưởng như có thể chạm tới để cảm nhận cách sống, con người phóng khoáng nơi sông nước chứa chan tình cảm. Bánh Trái Mùa Xưa rất buồn. Buồn vì những gì đã mất đi không bao giờ còn có thể lấy lại. Buồn vì cuộc sống hiện đại chà mòn những vẻ đẹp đơn sơ thấm đẫm tình người. Buồn vì giá trị vật chất đang lấy đi những hoài niệm.
  7. 2. Tác phẩm b. Đọc
  8. Mùa phơi sân trước (Nguyễn Ngọc Tư) Hồicon nít thích đi xe đạp về nhà ngoại bằng con đường xóm cặp mé sông Rạch Rập. Đường đất dầm dãi suốt một mùa mưa, chừng gió chướng thổi về mới ráo tạnh bùn lầy. Đến Chạp thì những chân trâu cũng bị bôi xóa hết, có thể đạp xe thong dong mà đã đời nghiêng ngó. Mùa Chạp đi bảy cây số không nghe mỏi. Gió chướng khoác lên làng mạc một vẻ mơ màng, đường uốn lượn theo sông, và dòng chảy đó thẳm suốt thoắt ẩn thoắt hiện sau những lùm cây hoang dại. Dọc đường thấy Tết lấp ló khắp nơi, trên sân nhà người, trên những giàn phơi. Người nhà quê hồi mình con nít toàn người nghèo, sân nhà quê hồi ấy cũng rặt sân đất, nên nhà nào cũng cặm cái giàn trước nhà, suốt sáu tháng mưa sân chìm trong nước cũng có chỗ mà đem phơi củi, hay gối, chiếu. Những ngày hửng nắng trên giàn luôn có thứ gì đó ngóng nắng, khi cám mốc, khi thì mớ bột gạo thừa trong lúc làm bánh, khi thì mớ cơm nguội hay mớ lá dừa khô dùng để nhen lửa, mấy trái đậu bắp già làm giống cho mùa sau Phơi trên giàn mọi thứ khô mau, vì nắng ngun ngút trên mặt, gió lộng phía lưng. Những nhà có sân rộng người ta còn phơi lúa trên giàn, lúa khô đem vô bồ được mấy hôm đã thấy trên mặt sân xăm xấp nước lúa rày đã lấm tấm xanh. Qua nhà nào có trẻ nhỏ gặp những tấm chiếu manh con con nằm uống nắng. Càng gần về cuối năm giàn phơi càng bận rộn. Dầu dãi oằn mình suốt năm, giờ trên giàn bày ra những món ngon chuẩn bị cho cuộc hội hè. Bánh phồng vừa quết xong, củ kiệu mới trộn đường xong, mứt gừng mới ngào nửa lửa thứ nào cũng ưa nắng. Nhưng cá khô mới là ưa nắng nhứt hạng, mới cần thứ nắng ròng ròng như thắp lửa, thứ nắng như cháy trên đầu. Mùa Chạp cá làm đìa người ta lớp rọng lớp làm mắm để ăn dần dần cho tới mùa lúa sau, mớ xẻ làm khô ăn Tết. Mùa đìa kéo dài cả tháng nghĩa là lúc nào giàn phơi cũng những con cá nằm nhuộm nắng cho đỏ au da thịt.
  9. Mùa Chạp thể nào cũng gặp người ta ép chuối khô. Chuối xiêm chín cây sẵn ngoài vườn, lột vỏ phơi một nắng, rồi đem ép mỏng. Không như cá khô rủ rê bọn ruồi nhặng đến mức phải đốt nắm nhang cắm nơi đầu gió để xua đuổi chúng, mật chuối tươm ướt rượt chỉ mê dụ quyến rũ lũ ong. Kéo tới dập dìu, lảo đảo bay đậu như say, những con ong sa đà ở giàn phơi cho đến khi những miếng chuối ép mỏng bắt đầu khô quắt, vàng óng như vừa nướng trên than hồng. Chuối phơi đủ nắng có thể ăn tới ra Giêng, mật lặn vào trong vừa ăn vừa tợp miếng trà, hoặc ngào qua với khóm, me đem dầm nước đá uống cũng ngon thấu trời. Vậy là nước miếng mình ứa ra, trên từng mét đường về nhà ngoại. Tâm hồn mệt nhoài với những món ăn cực kỳ mời gọi trong sân thiên hạ. Đang thèm tô cơm nguội chan nước dừa ăn với khô lóc nướng thì bỗng nghĩ giờ phải có thịt kho Tàu để ăn với dưa kiệu nhà kia, rồi cái hủ mắm tép dầm nắng sát hàng rào làm mình nhớ nhung chuối chát, khế chua cùng với gừng xắt mịn thì mâm mứt tắc đỏ au đằng kia làm mình lịm chết một cách lim dim như tụi kiến. Chân rõ ràng không mỏi, nhưng tâm rã rời, cứ chạy theo đeo đuổi miết trên những giàn phơi. Hụt hơi, chới với. Có lần về nhà kêu má Tết này làm những món này này, những món mà mình nhìn thấy mang theo trên suốt chặng đường từ nhà ngoại về. Má cười, người ta có đâu có nghĩa là mình phải có. Mình dại hơn cả tuổi mười ba, không hiểu câu đó mấy, nên vẫn muốn má bày thật nhiều thứ trên giàn phơi nhà mình, chớ không phải còm nhom chút dưa kiệu, dưa hành, chút chuối khô Nên Chạp sau mình vẫn nhắc, má lại nói ta đâu cần phải có cái mà người ta có. Cũng may qua mỗi Chạp mỗi mùa phơi mình mỗi lớn, bài học của người của ta má không nhắc nữa, mình bỗng bâng quơ nhớ. Nhận ra trên giàn cũng phơi những thân phận người. Ngó qua khoảng sân đã rợp những cây mồng gà, vạn thọ biết ai ăn Tết lớn ai chịu đìu hiu, như ngó qua cái sào phơi quần áo biết nhà ai đông nhà ai đơn chiếc, ai khá giả ai nghèo. Nắng gió khiến mọi niềm vui nỗi buồn bày ra như một cuộc diễu hành, không che giấu khách qua đường. Căn chòi của bà già chèo đò hay chở mình qua sông trống mãi, cho đến ngày cuối Chạp bỗng trên đống củi có phơi vài tàu lá chuối, biết tối nay trên sân nhỏ bà sẽ ngồi canh nồi bánh tét đến giao thừa. Mình bỗng nghe nhẹ nhõm khi nhìn theo bóng nhỏ đưa chiếc đò về bên kia sông. Chật vật mấy, cuối Chạp cũng có cái đem phơi, đem nhuộm nắng, cũng có bụi bông vạn thọ, và bông trang bông lồng đèn nở rực rỡ trên rào (In trong Bánh trái mùa xưa, NXB Hội Nhà văn, 2015)
  10. 2. Tác phẩm c. Thể loại d. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm e. Bố cục: 2 phần - Phần 1: Từ đầu đến: “người ta có”: Tác giả nhớ về những kỉ niệm mùa phơi sân trước. - Phần 2: Còn lại: Tình cảm của tác giả thể hiện qua văn bản.
  11. II. SUY NGẪM VÀ PHẢN HỒI
  12. II. SUY NGẪM VÀ PHẢN HỒI 1. Kỉ niệm về mùa phơi sân trước.
  13. THẢO LUẬN NHÓM (4p) + Tác giả giới thiệu về kỉ niệm gì trong phần đầu văn bản. + Những hình ảnh nào gợi nhắc tác giả nhớ về tuổi thơ? + Người dân phơi gì trên những giàn phơi? Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì trong phần này. + Hãy nhận xét những hình ảnh miêu tả về mùa phơi trước sân của tác giả?
  14. PHIẾU HỌC TẬP Kỉ niệm, Hình ảnh: Những đồ vật được phơi trên giàn phơi: Nghệ thuật: Nhận xét:
  15. + Tác giả giới thiệu về kỉ niệm gì trong phần đầu văn bản. + Những hình ảnh nào gợi nhắc tác giả nhớ về tuổi thơ? + Người dân phơi gì trên những giàn phơi? Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì trong phần này. + Hãy nhận xét những hình ảnh miêu tả về mùa phơi trước sân của tác giả?
  16. Mùa phơi sân trước (Nguyễn Ngọc Tư) Hồicon nít thích đi xe đạp về nhà ngoại bằng con đường xóm cặp mé sông Rạch Rập. Đường đất dầm dãi suốt một mùa mưa, chừnggió chướng thổi về mới ráo tạnh bùn. lầy Đến Chạp thì những chân trâu cũng bị bôi xóa hết, có thể đạp xe thong dong mà thỏa thuê nghiêng ngó. Mùa Chạp đi bảy cây số không nghe mỏi. Gió chướng khoác lên làng mạc một vẻ mơ màng, đường uốn lượn theo sông, và dòng chảy đó thẳm suốt thoắt ẩn thoắt hiện sau những lùm cây hoang dại. Dọc đường thấy Tết lấp ló khắp nơi, trên sân nhà người, trên những giàn phơi. Người nhà quê hồi mình con nít toàn người nghèo, sân nhà quê hồi ấy cũng rặt sân đất, nên nhà nào cũng cặm cái giàn trước nhà, suốt sáu tháng mưa sân chìm trong nước cũng có chỗ mà đem phơi củi, hay gối, chiếu. Những ngày hửng nắng trên giàn luôn có thứ gì đó ngóng nắng, khi cám mốc, khi thì mớ bột gạo thừa trong lúc làm bánh, khi thì mớ cơm nguội hay mớ lá dừa khô dùng để nhen lửa, mấy trái đậu bắp già làm giống cho mùa sau Phơi trên giàn mọi thứ khô mau, vì nắng ngun ngút trên mặt, gió lộng phía lưng. Những nhà có sân rộng người ta còn phơi lúa trên giàn, lúa khô đem vô bồ được mấy hôm đã thấy trên mặt sân săm sắp nước lúa rày đã lấm tấm xanh. Qua nhà nào có trẻ nhỏ gặp những tấm chiếu manh con con nằm uống nắng. Càng gần về cuối năm giàn phơi càng bận rộn. Dầu dãi oằn mình suốt năm, giờ trên giàn bày ra những món ngon chuẩn bị cho cuộc hội hè. Bánh phồng vừa quết xong, củ kiệu mới trộn đường xong, mứt gừng mới ngào nửa lửa thứ nào cũng ưa nắng. Nhưng cá khô mới là ưa nắng nhứt hạng, mới cần thứ nắng ròng ròng như thắp lửa, thứ nắng như cháy trên đầu. Mùa Chạp cá làm đìa người ta lớp rọng lớp làm mắm để ăn dần dần cho tới mùa lúa sau, mớ xẻ làm khô ăn Tết. Mùa đìa kéo dài cả tháng nghĩa là lúc nào giàn phơi cũng những con cá nằm nhuộm nắng cho đỏ au da thịt.
  17. 1. Ki niệm về mùa phơi sân trước - Kỉ niệm: Ngày còn nhỏ đạp xe về nhà ngoại. - Gió chướng về vào tháng Chạp là báo hiệu Tết về. - Giàn phơi trước sân là hình ảnh quen thuộc trong kí ức của tác giả về một thời tuổi thơ của mình: + Họ phơi trên giàn khi thì “củi”, “gối”, “chiếu” hay “cám mốc”, “mớ bột gạo, mớ cơm nguội thừa”, + Càng về cuối năm, người ta càng phơi nhiều thứ lên: “bánh phồng”, “củ kiệu”, mứt “gừng”. * Nghệ thuật: Liệt kê nhằm thể hiện sự độc đáo, đa dạng những hình ảnh, câu chuyện thân thuộc, gắn bó trong suốt quãng thời gian tuổi thơ cùng với cảm xúc bâng khuâng, hoài niệm. Hình ảnh miêu tả chân thực, bình dị nhưng đầy chất thơ, là những kí ức đẹp trong lòng tác giả về quê hương yêu dấu thể hiện tình yêu sâu nặng đối với quê hương.
  18. 1. Ki niệm về mùa phơi sân trước - Kỉ niệm: Ngày còn nhỏ đạp xe về nhà ngoại. - Gió chướng về vào tháng Chạp à báo hiệu Tết về. - Giàn phơi trước sân là hình ảnh quen thuộc trong kí ức của tác giả về một thời tuổi thơ của mình: + Họ phơi trên giàn khi thì “củi”, “gối”, “chiếu” hay “cám mốc”, “mớ bột gạo, mớ cơm nguội thừa”, + Càng về cuối năm, người ta càng phơi nhiều thứ lên: “bánh gừng”, “củ kiệu”, mứt “gừng”. * Nghệ thuật: Liệt kê nhằm thể hiện sự độc đáo, đa dạng và trí nhớ, tình cảm của tác giả khi nhớ về kỉ niệm ở quê mình. Hình ảnh miêu tả chân thực, bình dị nhưng đầy chất thơ, là những kí ức đẹp trong lòng tác giả về quê hương yêu dấu thể hiện tình yêu sâu nặng đối với quê hương.
  19. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP
  20. Trình bày cảm nhận của em về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư sau khi tiếp xúc với văn bản Mùa phơi sân trước ?
  21. Đặc điểm của tản văn được thể hiện trong phần 1 của văn bản? + Đoạn văn xuôi ngắn gọn, mang tính trữ tình, tự sự, miêu tả sâu sắc về những kỉ niệm đẹp đẽ của tác giả trước mùa phơi sân trước. Qua đoạn văn, tác giả bộc lộ trực tiếp tình cảm yêu mến, suy nghĩ vấn vương về những kỉ niệm nơi đây. + Dùng ngôi kể thứ nhất. + Ngôn từ đơn giản, mang hơi thở đời sống và đầy chất trữ tình.