Bài giảng Giáo dục địa phương 7 - Tiết 10, Bài 3: Danh nhân, nhân vật lịch sử tiểu biểu tỉnh Bắc Ninh (từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI)

pptx 21 trang Linh Nhi 27/12/2024 1400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Giáo dục địa phương 7 - Tiết 10, Bài 3: Danh nhân, nhân vật lịch sử tiểu biểu tỉnh Bắc Ninh (từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pptxbai_giang_giao_duc_dia_phuong_7_tiet_10_bai_3_danh_nhan_nhan.pptx

Nội dung text: Bài giảng Giáo dục địa phương 7 - Tiết 10, Bài 3: Danh nhân, nhân vật lịch sử tiểu biểu tỉnh Bắc Ninh (từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI)

  1. TIẾT 10: Bài 3 DANH NHÂN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ TIỂU BIỂU TỈNH BẮC NINH (TỪ ĐẦU THẾ KỈ X ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XVI) (4 tiết)
  2. MỞ ĐẦU Trong sách Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh (Lê Viết Nga chủ biên), có viết: “Kim Đôi nhiều cuộc hiển vinh Hai mươi nhăm đấng khoa danh rỡ ràng Vĩnh Kiều đó bảng vàng rỡ rỡ Lương Xá, Vọng Nguyệt - vùng quê anh tài ”. Câu ca trên nêu những địa danh nào gắn với truyền thống gì ở Bắc Ninh thời phong kiến?
  3. 1. Lý Đạo Tái (1254 – 1334) - Những tiền đề nào giúp cho Lý Đạo Tái sớm trở thành người học rộng, biết nhiều và đỗ đạt cao? - Lý Đạo Tái sinh năm Giáp Dần (1254), người xã Vạn Tư, huyện Gia Định, nay thuộc thôn Vạn Ti, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, trong một gia đình dòng dõi quan lại. - Ông nội làm chức chuyển vận sứ dưới triều Lý. - Lý Đạo Tái là người chăm học, ham tìm hiểu, có thiên phú văn chương, biết làm thơ từ năm 9 tuổi. Năm 21 tuổi, Lý Đạo Tái đỗ Trạng nguyên khoa thi năm 1274.
  4. - Lý Đạo Tái được bổ làm quan ở Hàn lâm viện - Ông bắt đầu cuộc sống tu hành năm 1305 tại chùa Vĩnh Nghiêm và trở thành một trong những người có công lớn hình thành Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, ông được ban pháp hiệu là Huyền Quang.
  5. Nêu nét chính về thân thế và những đóng góp của Thiền sư Huyền Quang? - Sư Huyền Quang tạ thế năm 1334. Vua Trần Minh Tông đặt ông trong Thiền phái Trúc Lâm là “Trúc Lâm thiền sư đệ tam đại” và đặc phong tự pháp “Huyền Quang tôn giả”.
  6. Lí do nào khiến Lý Đạo Tái xin vua từ quan để xuất gia tu học? Theo Thực lục gia truyền của đệ tam tổ thì “năm Quý Mão (1303), Lý Đạo Tái vào kinh tâu vua xin về làng thăm cha mẹ. Sau khi về làng, sư làm một ngôi chùa ở phía Tây nhà và ở phía Đông chùa Ngọc Hoàng, đặt tên là chùa Đại Bi ”; với ý nghĩa: đức Phật đại từ đại bi, Quan Thế Âm Bồ Tát cứu được cha mẹ về với đạo Phật. Chùa Đại Bi còn có tên là chùa Tổ hay chùa Tẩy nay thuộc thôn Vạn Ti, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình.
  7. Việc Huyền Quang cho xây chùa tại quê nhà và đặt tên là Đại Bi đã thể hiện tâm nguyện gì của ông? Tưởng nhớ công lao của Thiền sư Huyền Quang, dân làng và tăng ni đã xây dựng đền Tam tổ và “Đệ tam tổ bảo tháp”.
  8. 2. Nguyễn Nghiêu Tư (1383 -?) - Nguyễn Nghiêu Tư sinh năm Quý Hợi (1383), người thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ. - Năm 66 tuổi, ông đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ khoa thi Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hoà 6 (1448) đời vua Lê Nhân Tông (khoa này lấy đỗ 27 người). Ông là người cao tuổi nhất đỗ Trạng nguyên trong nền khoa cử phong kiến Việt Nam. - Nguyễn Nghiêu Tư sau khi thi đỗ trạng nguyên làm quan Hàn lâm trực học sĩ, rồi An phủ sứ lộ Tân Hưng Thượng. Chức quan cao nhất ông đảm nhiệm là Lại bộ thượng thư dưới triều Lê.
  9. - Khi Nguyễn Nghiêu Tư về trí sĩ, vua thấy ông có công lớn với đất nước nên phong là “Thượng quốc công Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư”. - Ông mất năm 1471. Nhân dân địa phương tôn kính lập đền “Quan Trạng” để thờ ông. Đền được dựng trên đỉnh núi, thuộc thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ.
  10. 3. Nguyễn Thiên Tích (1404 – 1466) - Nguyễn Thiên Tích sinh năm Giáp Thân (1404), người thôn Lộ Bao, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du. Con cháu của Nguyễn Thiên Tích đã kế tục được truyền thống gì? Tại sao Nguyễn Thiên Tích được cả bốn đời vua nhà Lê trọng dụng? - Nguyễn Thiên Tích đỗ Trạng nguyên khoa thi năm Tân Hợi (1431) đời vua Lê Thái Tổ. - Nhờ có tài văn chương, ông được vua Lê Thái Tổ giao việc soạn thảo văn bản giao thiệp với nước ngoài. Trong đời vua Lê Thái Tông, ông giữ chức Giám quan, được vua cử đi sứ phương Bắc ba lần.
  11. - Đời vua Lê Thánh Tông ông được thăng chức Thượng thư Bộ Binh, Phủ sự tứ triều, sau lại kiêm Quốc tử giám tế tửu. - Ông mất năm Bính Tuất (1466) thọ 63 tuổi, tương truyền phần mộ hiện còn ở núi Lim.
  12. Nguyễn Thiên Tích có tên tự là Huyền Khuê, người làng Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh khoảng năm 1400 (Trên núi Hồng Vân - Núi Lim - Tiên Du - Bắc Ninh, có một ngôi mộ không rõ tên, trên bia mộ chỉ ghi năm sinh năm mất, thông tin về đỗ trạng nguyên và chức quan được ghi bằng chữ quốc ngữ, dựa vào thông tin được ghi trên bia mộ và thông tin về Nguyễn Thiên Tích trước đó, có thể đặt ra nghi vấn đây là mộ của ông). Ông thi đỗ khoa hoành từ năm 1431 đời Lê Thái Tổ. Nhờ có tài văn chương, ông được Lê Thái Tổ giao việc soạn văn bản giao thiệp với nước ngoài.
  13. Nghi vấn Nguyễn Thiên Tích mất năm 1470 (Vì trên núi Hồng Vân - Núi Lim - Tiên Du - Bắc Ninh, có một ngôi mộ không rõ tên, trên bia mộ chỉ ghi năm sinh năm mất, thông tin về đỗ trạng nguyên và chức quan được ghi bằng chữ quốc ngữ, dựa vào thông tin được ghi trên bia mộ và thông tin về Nguyễn Thiên Tích trước đó, có thể đặt ra nghi vấn đây là mộ của ông. Ông hoạt động trong khoảng hơn 30 năm, được đánh giá là người khẳng khái, được 4 đời vua trọng dụng, nhờ có khí tiết.
  14. 4. Thái Thuận (1441 - ?) - Thái Thuận sinh năm Tân Dậu (1441 - ?), trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc nay (quê làng Ngọc Lâm, xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông có hiệu là Lục Khê, biệt danh là Lã Đường. - Năm 35 tuổi, Thái Thuận thi đậu Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ khoa thi Ất Mùi (1475), niên hiệu Hồng Đức thứ 6, đời vua Lê Thánh Tông.
  15. - Sau khi đỗ đạt, ông được nhà vua tin tưởng và giao chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm viện hơn 20 năm, sau đượcbổ giữ chức Tham chính sứ Hải Dương, ông được cử làm Tao Đàn phó Nguyên suý (đứng thứ 2 sau Nguyên suý là vua Lê Thánh Tông).
  16. Thái Thuận (1441 - 1509?)[1] tự là Nghĩa Hòa, hiệu là Lựu Khê, biệt danh là Lã Đường. Người làng Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Khi còn nhỏ, Thái Thuận học rất giỏi nhưng chưa đi thi thì phải sung lính. Trong kháng chiến chống quân Minh, ông là một chiến sĩ tài ba – “Lính dạy voi” xuất sắc. Anh lính quản tượng này ngày đêm miệt mài đèn sách, “nấu sử sôi kinh” để quyết chí lo việc khoa danh. Năm 35 tuổi, Thái Thuận đậu “Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ”[2] khoa Ất Mùi 1475 (Niên hiệu Hồng Đức thứ 6 đời vua Lê Thánh Tông). Sau đó, ông được bổ chức Hàn lâm viện Hiệu lý, rồi làm Tham chính ở Hải Dương suốt hơn 20 năm. Khi làm quan, Thái Thuận nổi tiếng cương trực và thanh liêm. Thái Thuận là một tài thơ. Sinh thời, ông đã viết hàng nghì bài thơ. Nhưng vì không có ý thức lưu truyền cho đời sau nên thơ ông bị thất lạc nhiều. Hiện nay chỉ còn lại 290 bài thơ được in trong tập “Lã Đường di cảo thi tập”. “Thơ Thái Thuận phần nhiều thanh nhã có phong cách Vân Đường” (Phan Huy Chú).
  17. Thái Thuận còn là Sái Phu hội Tao Đàn[3] (người có nhiệm vụ sửa chữa, biên tập và cho in ấn sáng tác của các hội viên). Ông làm việc này rất nổi trội nên người đời gọi ông là Sái Thuận[4]. Mến phục đạo đức và tài năng của Sái Phu Thái Thuận nên sau khi Đỗ Nhuận mất vua Lê Thánh Tông không giao cho Ngô Luân kế cận mà phong cho Sái Thuận chức Phó Nguyên súy Tao Đàn. Như vậy, Thái Thuận là một tấm gương “khổ học thành tài”, con người “Đạo đức văn chương một thời được tôn trọng” (Lê Quý Đôn). Ông xứng đáng được tôn vinh là danh nhân lịch sử Kinh Bắc – một vùng quê nổi tiếng không chỉ bởi “đất đế vương” mà còn là vùng đất có “truyền thống thượng võ và hiếu học”.
  18. 5. Nguyễn Giản Thanh (1483 – 1552) Em hãy nêu những nét chính về thân thế, sự nghiệp của Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh.? - Nguyễn Giản Thanh sinh năm Quý Mão (1483), quê xã Ông Mặc (tục gọi làng Me), huyện Đông Ngàn (nay là khu phố Hương Mạc, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn). Cha ông là cụ Nguyễn Giản Liêm đỗ Tiến sĩ khi 26 tuổi tại khoa thi Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) đời vua Lê Thánh Tông. - Năm 26 tuổi, Nguyễn Giản Thanh đỗ Trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn (1508) đời vua Lê Uy Mục. Dân gian gọi ông là Trạng Me (tức là ông Trạng người làng Me). - Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện thị thư kiêm Đông các đại học sĩ dưới thời Lê, sau làm Lễ bộ thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị độc, Chưởng viện sự tước Trung phụ bá dưới thời nhà Mạc.
  19. - Ông tạ thế năm Nhâm Tý (1552) khi sắp về trí sĩ, thọ 70 tuổi. - Sau khi mất, ông được truy phong tước Hầu. - Năm 1989, đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh và các vị đại khoa họ Nguyễn Giản ở khu phố Hương Mạc được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hoá cấp quốc gia.
  20. 6. Nguyễn Đăng (1576 - ?) - Nguyễn Đăng là người làng Đại Toán, huyện Quế Dương, nay là thôn Mai (dân gian quê ông thường gọi là làng Tỏi), xã Chi Lăng, huyện Quế Võ. - Ông thi Hương, thi Hội đều đỗ đầu. - Năm 26 tuổi, ông đứng đầu danh sách đỗ kỳ thi Đình (Hoàng giáp) tại khoa thi Nhâm Dần (1602). - Sau đó, nhà vua mở thêm khoa thi “Ứng chế” để tìm người tài giỏi đi sứ, ông lại đỗ đầu, được nhà vua yêu mến gọi là “Tứ Nguyên”. - Năm 1613, ông được cử đi sứ sang nhà Minh, với tài ngoại giao kiệt xuất, tài thơ văn nổi tiếng, ông được vua quan nhà Minh phong làm “Trạng Nguyên”, dân gian gọi ông là “Trạng Tỏi”. - Ông làm quan đến chức Tả thị lang Bộ Hộ tước Phúc Nham hầu.
  21. - Nguyễn Đăng mất, dân làng lập đền thờ phụng gọi là “Đền Thánh Trạng” và tôn ông làm Thành Em có biết? hoàng làng, thờ tại đình để tưởng nhớ muôn đời. Lăng mộ của ông hiện ở thôn Tỏi Đồng. - Năm 1991, đình làng Hán Đà và đền thờ “Tứ Nguyên” Nguyễn Đăng đã được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Trong đền hiện còn có tượng, bia đá dựng năm 1660 khắc ghi về ông cùng nhiều đồ tế tự có giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật.